Thuốc sử dụng Tiêm thuốc độc

Quy trình tiêm thuốc độc thông thường

Thông thường, ba loại thuốc được sử dụng trong tử hình tiêm thuốc độc. Natri thiopental được sử dụng để gây bất tỉnh, pancuronium bromua (Pavulon) để gây tê liệt cơ và ngừng hô hấp, và kali clorua để ngừng tim.[4]

Midazolam

Bài chi tiết: Midazolam
  • Liều lượng chết người: 50-100 gram

Midazolam là một loại barbiturat hoạt động cực ngắn, thường được sử dụng cho gây tê cảm giác và gây hôn mê trong y học. Liều gây mê điển hình là 50 gram. Quá trình mất ý thức xảy ra trong vòng 30-45 giây với liều lượng điển hình, trong khi liều lượng 100 gram (gấp 14 lần so với liều bình thường) sẽ gây ra bất tỉnh trong 10 giây.

Một liều đầy đủ midazolam đến não trong khoảng 30 giây, gây ra trạng thái bất tỉnh. Khoảng từ 5 đến 20 phút sau khi tiêm, còn khoảng 15% thuốc nằm trong não, phần còn lại ở các bộ phận khác của cơ thể.

Vecuronium bromide (Norcuron)

Bài chi tiết: Vecuronium bromide
  • Liều lượng chết người: 100 milligram

Vecuronium bromide (tên thương mại: Norcuron): Thuốc curare có liên quan, như vecuronium, là một chất làm giãn cơ không khử cực chặn hoạt động của acetylcholine ở đĩa cuối vận động của mối nối dây thần kinh cơ. Kết nối acetylcholine với các thụ thể trên tấm cuối gây ra sự khử cực và co lại của sợi cơ; các thuốc chống thần kinh cơ không khử cực như vecuronium ngăn chặn sự kết nối này.

Liều điển hình cho vecuronium bromide trong tiêm thuốc độc là 0.2 mg/kg và thời gian tê liệt là khoảng 4-8 giờ. Việc tê liệt các cơ hô hấp sẽ dẫn đến tử vong trong một thời gian ngắn hơn đáng kể.

Muối Kali clorua dạng dung dịch (Potassium Chloride)

Bài chi tiết: Kali clorua

Kali là chất điện phân, trong đó 98% nằm trong tế bào, 2% còn lại bên ngoài tế bào. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với các tế bào tạo ra tiềm năng hoạt động. Các bác sĩ kê toa kali cho bệnh nhân khi mức kali trong máu không đủ, gọi là hạ kali huyết. Kali có thể được cho uống, đó là con đường an toàn nhất; hoặc nó có thể được tiêm tĩnh mạch, trong trường hợp đó cần áp dụng các quy tắc nghiêm ngặt và các quy trình bệnh viện để điều chỉnh tỷ lệ cung cấp.

Liều tiêm tĩnh mạch thông thường là 10-20 mEq mỗi giờ và nó được đưa vào từ từ vì phải mất thời gian để chất điện phân cân bằng trong tế bào. Khi được sử dụng trong trường hợp tiêm thuốc độc, tiêm kali clorua ảnh hưởng đến sự dẫn điện của cơ tim. Việc tăng kali máu, làm cho điện thế nghỉ ngơi của các tế bào cơ tim thấp hơn bình thường (ít âm hơn). Nếu không có điện thế âm này, các tế bào tim không thể đảo cực (để chuẩn bị cho kỳ co bóp tiếp theo).

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tiêm thuốc độc http://www.mauthausen-memorial.at/db/admin/de/show... http://edition.cnn.com/2014/01/16/justice/ohio-den... http://www.ctpost.com/news/crime/article/Unclear-f... http://www.dw.com/de/us-pharmariese-pfizer-stoppt-... http://articles.latimes.com/2006/feb/15/local/me-m... http://www.upi.com/Top_News/2006/12/14/Florida-let... http://jurist.law.pitt.edu/paperchase/2007/07/flor... http://jurist.law.pitt.edu/paperchase/2007/11/flor... http://eur-lex.europa.eu/LexUriServ/LexUriServ.do?... http://www.capitalpunishmentuk.org/injection.html